WGPSG -- Nhằm kỉ niệm năm mươi năm sắc lệnh Ad Gentes (đến với muôn dân) ra đời, chúng ta cùng nhau nhìn lại sự chuyển mình của Hội Thánh trên đường Loan báo Tin Mừng: từ văn kiện Ad Gentes (AG) đến văn kiện Evangelii Gaudium (EG)*.
Văn kiện AG của Công Đồng Vaticano II khẳng định “bản chất của Giáo Hội là truyền giáo” (AG, Số 2).
Thượng Hội Đồng Giám mục họp năm 2012 tái khẳng định: tân phúc âm hoá là một lời kêu gọi được gửi tới mọi người và nhằm tới ba đối tượng chính:
1. Thứ nhất là người sống đạo khô khan
2. Thứ hai là người không sống đạo
3. Thứ ba là người chưa biết Chúa.
Với tông huấn EG, Đức Phanxicô mời gọi các tín hữu truyền giáo với hình thức “mới mà không mới”: đó là loan báo Tin mừng bằng sức hút: “
Thay vì tỏ ra muốn áp đặt những bó buộc mới, người Kitô hữu phải tỏ ra như là những người muốn chia sẻ niềm vui của mình, chỉ ra một chân trời của cái đẹp, và mời gọi mọi người khác tới dự một bữa tiệc ngon. Hội Thánh phát triển không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng “bằng sức thu hút” (EG, số 14).
A. Ad Gentes: Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội
1. Chủ đích của việc rao giảng Tin Mừng
Chủ đích của việc rao giảng Tin Mừng là loan báo về “Đấng được Chúa Cha thánh hóa và sai xuống trần gian” (x. Ga 19,36).
Đồng thời, chủ đích của hoạt động truyền giáo cũng là việc gầy dựng cộng đoàn nơi các dân tộc hay những cộng đồng chưa có sự hiện diện của Giáo Hội (
AG, số 6).
2. Ai là người LBTM ?
Loan báo Tin Mừng không phải là của riêng ai mà “
toàn thể Giáo Hội đều phải truyền giáo và công cuộc Phúc Âm hóa là nhiệm vụ căn bản của đoàn Dân Chúa” (AG, số 35).
3. Tại sao phải LBTM khi Công đồng Vaticanô II khẳng định những người ở ngoài Giáo hội cũng có thể được cứu độ?
Thật vậy, những ai không vì lỗi của mình mà chưa biết đến Tin Mừng của Đức Kitô và Giáo Hội Người, nhưng lại thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng hành động để chu toàn thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ qua mệnh lệnh của lương tâm, thì vẫn có thể đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu. Cả những người không vì lỗi của mình mà chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng cố gắng sống đời chính trực, dĩ nhiên là với ơn Chúa, thì Chúa Quan Phòng cũng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu độ (LG, số 16).
Dù những người chưa biết Chúa cũng có thể được ơn cứu độ, chúng ta vẫn vui sướng được LBTM cho mọi người. Được biết Đức Giêsu một cách rõ ràng là hạnh phúc lớn. Chúng ta không muốn giữ hạnh phúc đó cho riêng mình. Hơn nữa, niềm tin minh nhiên vào Đức Giêsu làm cho con người được gắn bó chặt chẽ với Đấng Cứu độ do Thiên Chúa sai đến, nhờ đó họ có thể được ơn cứu độ một cách “vững chắc” hơn.
B. Đức Phaolô VI: Tông huấn Evangelii Nuntiandi
Tông huấn ra đời trong bối cảnh kết thúc năm thánh, kỉ niệm mười năm bế mạc Công Đồng Vatican II và vấn đề Phúc âm hóa của Thượng hội Đống Giám Mục năm 1974. Qua tông huấn này, Đức Phaolô IV muốn khuyến khích các Ki-tô hữu thêm lòng yêu mến, nhiệt thành và hân hoan chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng.
1. Sứ giả Tin Mừng, những chứng nhân chân thực
Thời nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại rằng thế kỷ này thèm khát sự chân thực. Nhất là đối với giới trẻ, người ta nói rằng họ ghê tởm sự giả trá, ngụy tạo và trên hết mọi sự họ tìm kiếm sự thật, sự trong suốt (EN, số 76).
Người ta vẫn luôn luôn đặt câu hỏi cách âm thầm hay lớn tiếng: “Anh có thực sự tin điều anh loan truyền không? Anh có sống đều anh tin không? Anh có thực sự rao giảng điều anh sống không?
Lòng nhiệt thành truyền giáo của chúng ta phải được xuất phát từ sự thánh thiện thật sự của một cuôc sống được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, và nhất là bằng lòng yêu mến đối với phép Thánh Thể. Hơn nữa, như Công Đồng đã nêu rõ việc rao giảng cũng phải làm cho người rao giảng lớn lên trong đường thánh thiện (EN, số 76).
2. Sứ giả Tin Mừng, người xây dựng hiệp nhất
Sức mạnh của việc rao giảng Tin Mừng sẽ giảm sút nhiều nếu những người loan truyền chia rẽ nhau bằng mọi rạn nứt. (EN, số 77). Số phận của việc rao giảng Tin Mừng liên kết chặt chẽ với chứng tá hiệp nhất của Giáo Hội.
3. Sứ giả Tin Mừng, người phục vụ của chân lý
Tin Mừng mà chúng ta có trọng trách rao giảng cũng là lời chân lý. Chân lý đem lại tự do (Ga 8,32) và bình an tâm hồn, đó chính là những điều người ta tìm kiếm khi đến nghe chúng ta rao giảng Tin Mừng. Chân lý về Thiên Chúa, chân lý về con người và số phận huyền nhiệm của con người, chân lý về thế gian, đó là những sự thật chúng ta tìm được trong Lời Chúa. Và chúng ta không phải là chủ sở hữu nhưng chỉ là người quản lý, người phát ngôn và đầy tớ phục vụ chân lý đó (EN, số 78).
4. Trở thành dấu chỉ của tình yêu: xây dựng nền văn minh tình thương
Tình yêu này là gì? Hơn cả tình cảm của môt nhà giáo, đó là tình yêu của một người cha một người mẹ. Một dấu chỉ của tình yêu này chính là biết lo lắng ban phát chân lý và dẫn tới hiệp nhất. Một dấu chỉ khác đó là tận hiến hoàn toàn cho việc loan báo Đức Kitô (EN, số 79).
Trước hết là tôn trọng tình trạng tôn giáo và tinh thần của những người mà ta rao giảng. Tôn trọng tiết điệu của họ mà ta không có quyền cưỡng ép. Tôn trọng lương tâm và xác tín của họ để không cưỡng bách họ.
Một dấu chỉ khác của tình yêu này là biết lo lắng không làm tổn thương người khác, nhất là những người còn yếu đức tin (x, 1Cr 8,9-13; Rm 14,15) bằng những lời nói tuy có thể rõ ràng đối với những người thông thạo, nhưng đối với các tín hữu thì đó có thể là nguồn bối rối và vấp phạm như một vết thương lòng.
Trước tiên Tin Mừng phải được công bố bằng chứng tá. Chẳng hạn giữa cộng đoàn nhân loại mà họ đang sống, một Kitô hữu hay một nhóm Kitô hữu, biểu lộ khả năng cảm thông và đón nhận, chia sẻ đời sống và số phận với những người khác, tỏ tình liên đới trong những nỗ lực chung nhằm đạt được những gì là cao qúy và tốt đẹp nhất.
C. Đức Gioan Phaolô II: Giáo Hoàng của những chuyến công du
Đức Phaolô VI đã ra khỏi nước Ý, và Đức Gioan Phaolô II là người mang lại ý nghĩa cho việc ra khỏi nước Ý. ĐGH Gioan-Phaolô II đã “chạm” đến cuộc đời xa hơn biên giới của Giáo Hội. Lúc sinh thời, ĐGH Gioan-Phaolô II đã được coi là vị thánh sống, hiện thân của lòng nhân hậu. Người ta gọi Ngài là “Giáo hoàng của mọi thời đại”.
Lý do căn bản của việc truyền giáo là sự mạc khải cuối cùng mà Thiên Chúa đã mạc khải về chính mình trong Đức Giêsu Kitô, vì thế tự bản tính, Giáo Hội có tính cách thừa sai. Giáo Hội không thể không loan báo Tin Mừng, tức chân lý toàn vẹn mà Thiên Chúa đã tỏ bày (RM, số 5)
D. Từ Ad Gentes đến THĐGMTG và Liên HĐGM Á Châu
1. Sứ giả Tin Mừng, người xây dựng hiệp nhất
Chúng ta chân thành cảm thấy bổn phận hoán cải bản thân trước tiên theo sức mạnh của Chúa Kitô, Đấng duy nhất có khả năng canh tân mọi sự, nhất là cuộc sống nghèo nàn của chúng ta.
2. Sứ giả Tin Mừng, bạn được sai đến đâu?
Đến với một thế giới đầy thách đố, nhưng đồng thời có nhiều cơ hội .
3.
Sứ giả Tin Mừng, bạn được sai đến với ai?
a. Kề cận với những ai đang khát khao ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống.
b. Đến với những người đã rời xa đức tin.
4. Sứ giả Tin Mừng, bạn thi hành sứ vụ như thế nào?
a. Đối thoại
Công cuộc Tân Phúc âm hóa kêu gọi lấy tinh thần đối thoại thúc đẩy cuộc sống hằng ngày và chọn tương quan hòa hợp chứ không đối đầu.
b. Hiện diện khiêm hạ
Chứng từ lặng lẽ nhưng hùng hồn của đời sống Kitô hữu đích thực đòi phải biết hiện diện trong khiêm hạ, biết sống đối thoại, trong đó bao gồm cuộc sống cầu nguyện và "chiêm niệm". Sự hiện diện khiêm hạ phải được thể hiện bằng nếp sống giản dị và liên kết với người nghèo.
5. Vai trò ngôn sứ
Ngôn sứ có nhiệm vụ bảo vệ phẩm giá làm người của tất cả mọi người, nhất là của phụ nữ, trẻ em và những người không có đủ điều kiện sống cho ra con người
. Qua việc tố cáo bất công, những sứ giả mới của Tin Mừng loan báo tình yêu của Thiên Chúa, ưu tiên dành cho người nghèo.
Liên đới với những nạn nhân: Chúa Giêsu đứng về phía nạn nhân của các thảm họa và bất công. Người liên đới với những ai bị xã hội loại bỏ. Liên đới và xót thương những nạn nhân và bị gạt ra ngoài lề xã hội phải trở thành chiều kích chính yếu của linh đạo Tân Phúc âm hóa.
E. Evangelii Gaudium
Sau năm mươi năm Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho ra tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng. Tông huấn này vừa như phác họa lại những bước đường cơ bản Giáo Hội đã đi, nhưng đồng thời cũng đưa ra những gợi ý cụ thể cho công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội đầu thế kỷ 21. Cụ thể Giáo Hội phải được gây dựng được những cộng đoàn tràn đầy niềm vui và niềm vui ấy sẽ lan tỏa ra đến tận các vùng ngoại biên, qua việc gặp gỡ văn hóa và chiếu tỏa lòng thương xót.
1. Gây dựng cộng đoàn rao giảng Tin Mừng
Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn mình vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động; cộng đoàn ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau khổ của Đức Kitô nơi người khác.
Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu. Cộng đoàn này cũng quen với việc kiên nhẫn chờ đợi và sự chịu đựng tông đồ. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng luôn luôn để tâm tới kết quả, vì Chúa muốn nó sinh hoa kết quả. Nó chăm sóc hạt giống và không mất kiên nhẫn với cỏ dại.
Sau cùng, một cộng đoàn loan báo Tin Mừng thì chan chứa niềm vui.
2. Gầy dựng giáo xứ hướng về truyền giáo
Giáo xứ có tính linh động cao, có thể tiếp thu những tình huống khá khác biệt tùy theo sự cởi mở và óc sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn. Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo.
3. Lòng đạo đức bình dân
Trong nhiều điểm nhấn của Niềm Vui Tin Mừng, Đức Phanxicô đã không quên nhắc lại tầm quan trọng của lòng đạo đức bình dân trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Ngài nói: “
Tầm quan trọng của lòng đạo đức bình dân: một cách diễn tả đích thực về hoạt động truyền giáo tự phát của Dân Chúa” (EG, số 122).
4. Trong Thánh Thần của Đức Chúa Phục Sinh
a. Đức Kitô Phục Sinh là nguồn gốc sâu xa của mọi niềm hy vọng. Nếu chúng ta nghĩ rằng không cái gì thay đổi được, chúng ta phải nhớ rằng Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết và bây giờ là Đấng toàn năng. Đức Giêsu Kitô đang sống thực sự.
Đức Kitô sống lại và được tôn vinh là nguồn suối hy vọng của chúng ta, và Ngài sẽ không từ chối giúp đỡ chúng ta trong việc thực thi sứ mạng Ngài đã ủy thác cho chúng ta.
b. Sức sống của Đấng Phục Sinh đã thấm nhập vào thế giới
. Sự sống lại của Đức Kitô không phải là một biến cố của quá khứ; nó chứa đựng một sức mạnh cốt thiết đã thấm nhuần thế giới này. Ở đâu mà tất cả có vẻ như đã chết, ở đó các dấu hiệu phục sinh đột nhiên xuất hiện. Đó là một sức mạnh không thể cưỡng lại được. Bất kể hoàn cảnh đen tối đến đâu, sự thiện luôn luôn xuất hiện trở lại và lan tỏa. Mỗi ngày trong thế giới của chúng ta, cái đẹp luôn luôn tái sinh, nó lớn lên xuyên qua những bão tố của lịch sử. Các giá trị luôn luôn có khuynh hướng xuất hiện trở lại dưới những dạng mới, và loài người cũng đã tái sinh hết lần này qua lần khác từ những tình huống xem như là đã tận số. Sức mạnh của sự sống lại là như thế, và tất cả những người loan báo Tin Mừng là những công cụ của sức mạnh ấy.
Kết luận
Giáo Hội Việt Nam sau hơn 400 năm truyền giáo nhưng tỉ lệ vẫn chưa tới 10% dân số. Năm mươi năm qua với biết bao thay đổi trong phương pháp truyền giáo, với ánh sáng của Vatican II, với các thông điệp về truyền giáo nhưng tỉ lệ người Công Giáo không tăng hoặc có tăng thì không đáng kể; có những nơi dậm chân tại chỗ, có những nơi suy giảm. Chúng ta cũng cần nhìn lại sau năm mươi năm khởi đầu truyền giáo: từ số không lên khoảng 150 ngàn. Đây là con số cho chúng ta suy nghĩ.
Chúng ta cần so sánh với với các tông đồ thời Hội Thánh sơ khai; so sánh với cha Đắc Lộ, những thừa sai, thầy giảng và giáo dân đầu thế kỳ 17.
Khi đưa ra những nhận định và những gợi ý trên nhằm để chúng ta đặt ra câu hỏi là chúng ta phải làm gì? Xin hãy không đỗ lỗi cho hoàn cảnh: Múa vụng chê đất lệch! Chúng ta hãy cùng xét mình với kinh tôi thú nhận: lỗi tại tôi mọi đàng!
Nhìn lại công cuộc truyền giáo từ Hội Thánh sơ khai cho đến hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra rằng khó khăn xuất hiện ở mọi thời đại. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng là hoàn cảnh thuận lợi hơn, nhiều phương tiện truyền giáo hơn. Nhưng chúng ta cũng có thể thấy rằng chúng ta đang sống chủ nghĩa “túm tụm”: Giáo Hội mình tốt rồi, giáo xứ mình mạnh rồi, gia đình mình thánh thiện rồi nên phải bảo vệ cái tốt, cái mạnh và cái thánh thiện đó bằng việc co cụm lại!
Đề nghị
Năm tới, Giáo Hội sống năm Phúc Âm hóa xã hội, nhưng trước tiên cần Tân Phúc Âm hóa nội bộ để Phúc Âm hóa xã hội. Thay vì những gợi ý, xin đưa ra vài đề nghị:
1. Tập trung vào Tin Mừng về con người và xã hội;
2. Tôn kính tổ tiên;
3. Hoạt động bác ái;
4. Sân chư dân;
5. Gặp gỡ và đối thoại
6. Hướng về
Trời mới đất mới (Kh 21,1)
Mỗi người chúng ta có thể có những góp ý cụ thể nữa.
----------
* Bài viết cho Đại hội Loan Báo Tin Mừng lần III năm 2015
ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt
Nguồn: WGPSG