Đây là một trong các tài liệu ý nghĩa nhất của thế kỷ XX, với cùng chiều hướng của các tài liệu quan trọng của Công Đồng Chúng Vaticăng II,
Ngày 26 tháng 3 năm 1967, tức cách đây 50 năm vào đúng ngày lễ Phục Sinh, Đức Phaolô VI đã công bố Thông điệp “Populorum progressio – Tiến bộ các dân tộc”. Đây là một trong các tài liệu ý nghĩa nhất của thế kỷ XX, với cùng chiều hướng của các tài liệu quan trọng của Công Đồng Chúng Vaticăng II, và với chính các tài liệu, diễn văn và bài phát biểu của chính Đức Phaolô VI từ Thông điệp “Ecclesiam suam Giáo Hội Ngài” cho tới diễn văn đọc tại Liên Hiệp Quốc ngày mùng 4 tháng 10 năm 1965.
Thông điệp gồm 87 số từ phần dẫn nhập cho tới lời kêu gọi kết thúc. Phần nhập đề khẳng định rằng “vấn đề xã hội là vấn đề luân lý”. Phần I của Thông điệp đề cập tới mục đích thông điệp nhắm tới là thăng tiến một sự phát triển toàn diện cho con người, tại khắp nơi trên thế giới này. Nó duyệt qua một số các dữ kiện giải thích tại sao lại cần phát triển con người toàn diện. Tiếp đền là tưong quan giữa Giáo Hội và sự phát triển, và công việc cần thực hiện trong các lãnh vực cụ thể của cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Phần hai của Thông điệp trình bầy đề tài “hướng tới việc phát triển liên đới của nhân loại”, bao gồm việc trợ giúp những người yếu đuối, tạo ra sự bình đẳng trong các tương quan thương mại, phát huy tình bác ái đại đồng, và thông điệp kết thúc với lời kêu gọi hướng tới mọi thành phần xã hội: các tín hữu công giáo, các kitô hữu và tín hữu các các tôn giáo khác, các người thiện chí, các giới chức lãnh đạo chính trị xã hội, kinh tế văn hoá, các tư tưởng gia, và tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.
Đức Phaolô VI trở thành Giáo Hoàng ngày 21 tháng 6 năm 1963 giữa khoá họp thứ nhất và thứ hai của Công Đồng Chung Vaticăng II. Ngay lập tức ngài đưa vào truyền thống các chuyến tông du, trước hết bên Palestina, tại Bếtlêhem, Nadarét và Giêrusalem, nơi ngài gặp gỡ Đức Athenagoras, Thượng phụ Giáo Hội chính thống Costantinopoli. Sau đó là các chuyến viếng thăm Bombay bên Ấn Độ, rồi Liên Hiệp Quốc và New York, Fatima Bồ Đào Nha, Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, Bogotà Colombia, Genève Thụy Sĩ, Uganda, Đông Á, Đại dương châu và Australia.
Trong sứ điệp phát thanh đọc một tháng trước ngày khai mạc Công Đồng Chung Vaticăng II Đức Gioan XXIII đã nói: “trước các dân tộc kém mở mang Giáo Hội muốn là Giáo Hội của tất cả mọi người và đặc biệt là Giáo Hội của người nghèo”. Ở đây Đức Roncalli đặt để sự tương ứng giữa các dân tộc nghèo và sự nghèo nàn của Giáo Hội là Giáo Hội thuộc về người nghèo, là những người khiến cho Giáo Hội hữu hình trong việc đi theo mầu nhiệm của Chúa Giêsu, là Đấng Cứu Thể của người nghèo.
** Theo cách thức của mình Đức Phaolô VI muốn du nhập viễn tượng này và trả lời cho thế giới kém mở mang đang gây áp lực mạnh, để đáp ứng nhu cầu của Tin Mừng đòi hỏi công bằng cho các quốc gia thuộc miền nam bán cầu. Nhất là hồi đó hàng Giám Mục châu Mỹ Latinh đặt ra vấn đề kitô hữu tham dự vào các tiến trình và phong trào cách mạng chính trị xã hội. Thông điệp muốn trả lời cho một tiến trình đã khởi đầu với Hiến chế mục vụ “Gaudium Spes - Vui Mừng và Hy Vọng” về Giáo Hội trong thế giới ngày nay. Hồi đó thế giới có các thay đổi sâu rộng với một tiến bộ kinh tế ngoạn mục chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, song song với một cuộc cách mạng sâu rộng trong điều kiện sống của con người, để lại các dấu vết trong lịch sử. Các tài liệu công đồng cho thấy Giáo Hội cũng ý thức được một điều gì vĩ đại đang xảy ra. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng khẳng định rằng: “Nhân loại ngày nay đang sống một giai đoạn mới trong lịch sử của mình. Đó là giai đoạn chất chứa những thay đổi sâu rộng và mau chóng đang dân dần lan rộng trên toàn địa cầu… Như thế, chúng ta có thể nói tới một biến đổi đích thực về mặt xã hội và văn hoá, sự biến đổi này đang lan tràn tới cả đời sống tôn giáo” (s. 4).
Sự tăng trưởng kinh tế đã thực sự là một hiện tượng không phải chỉ của thế giới tây âu, nhưng cả trong khối liên xô, và tại các nước đang trên đường phát triển, bị gọi là “thế giới thứ ba” nữa. Các nước này có dân số gia tăng một cách ngoạn mục, và tuổi thọ của con người cũng gia tăng vì các phát triển trong lãnh vực nông nghiệp và y khoa. Thông điệp Tiến bộ các dân tộc cũng ghi nhận sự va chạm giữa các nền văn minh truyền thống và các mới mẻ do nền văn minh kỹ nghệ đem lại tạo ra hậu quả sâu rộng trên các cơ cấu không thích ứng được với các điều kiện mới mẻ. Bên trong môi trường thường là cứng nhắc của các cơ cấu đó, được đóng khung cuộc sống của các cá nhân và gia đình, tìm thấy nơi các cơ cấu ấy sự nâng đỡ cần thiết, và các thế hệ già bám víu vào chúng, trong khi giới trẻ hướng tới chỗ thoát khỏi các cơ cấu này vì coi chúng như một chướng ngại vô ích; và họ hướng tới các hình thức mới mẻ trong cuộc sống xã hội. Mặc dầu thừa nhận các điều ác của một loại chế độ thực dân nào đó và các hậu quả tiêu cực của nó, thông điệp thừa nhận trong vài trường hợp tiến trình khởi đầu tối tân hoá cũng đã phù hợp với các đường lối chính trị của các quyền lực thực dân. Mặc dù không đầy đủ nhưng vài cơ cấu vẫn hoạt động, chẳng hạn như trên bình diện chống lại nạn dốt nát mù chữ và bệnh tật, trong lãnh vực truyền thông và cải tiến các điều kiện an sinh.
** Chính việc thoát khỏi tình trạng ao tù của các xã hội truyền thống đang mở mắt cho các đám đông dân chúng của các quốc gia nghèo đang trên đường phát triển, và trải rộng ra trên bình diện toàn cầu các xung đột xã hội. Sự âu lo xâm chiếm các tầng lớp nghèo của các quốc gia đang trong giai đoạn kỹ nghệ hoá giờ đây đã tới với những người, cho tới nay hầu như chỉ sống về nông nghiệp. Giới nông dân ý thức về cảnh nghèo túng đáng lý ra họ không phải chịu một cách bất công như cho tới nay. Tóm lại, để triệt hạ nghèo đói và bất công - và đây là đường hướng của Thông điệp - cần phải tháp nhập các giai tầng này vào trong một tiến trình biến đổi kinh tế, chứ không được để cho họ bị gạt bỏ ngoài lề. Điều quan trọng đó là phải cai trị, hướng dẫn tiến trình tiến bộ này tới các mục tiêu xác định, không thể để cho nó muốn tới đâu thì tới. Và việc phát triển không chỉ được giản lược vào sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà thôi, nhưng phải là việc phát triển toàn diện, có nghĩa là phải thăng tiến sự phát triển của mỗi một người và toàn con người trong tất cả mọi bình diện cuộc sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, an sinh và tôn giáo.
Để được như vậy trước hết xã hội phát xuất từ sự tân tiến hoá này không đuợc lập lại các sai lầm và khuyết điểm của “thế giới thứ nhất”, bao gồm các chủ trương tiêu thụ hưởng, chủ thuyết hạt nhân duy cá nhân chủ nghĩa, cái luận lý đơn thuần duy lợi ích chủ thuyết hoạt động, chủ thuyết kỹ thuật. Mọi tăng trưởng đều hàm hồ. Vì thế cần phải cho phép con người là nguời hơn. Nếu việc theo đuổi phát triển ngày càng đòi hỏi một số chuyên viên kỹ thuật đông hơn, thì lại càng cần có đông tư tưởng gia có khả năng suy tư sâu rộng, tìm kiếm một nền nhân bản mới cho phép con người tìm lại được chính mình, nhận lãnh các giá trị cao hơn cuả tình yêu thương, tình bạn, của lời cầu nguyện và việc chiêm niệm. Như vậy cần duy trì cái gì đó của chủ trương chung và của các phẩm chất khác của các xã hội truyền thống, và dẫn đưa chúng vào trong các xã hội mới.
Ngoài ra, cần phải tránh cho các xã hội mới khỏi rơi vào các bất công xã hội xâu xé đã xảy ra trong các thế giới tây âu sau cuộc cách mạng kỹ nghệ đầu tiên. Thông điệp không đổ lỗi cho việc kỹ nghệ hoá có các khía cạnh tích cực của nó, nhưng cảnh cáo khung cảnh ý thức hệ, trong đó nảy sinh ra chủ thuyết tư bản tự do. Trong các xã hội mới cần phải có chỗ cho việc tăng trưởng tư bản cùng tới việc chiếm hữu những gì cần thiết cho cuộc sống, chiến thắng các tai ương xã hội, mở rộng việc hiểu biết, chiếm hữu được văn hoá.
** Tất cả những điều này đã được thực hiện tại các nước kỹ nghệ phát triển, nhưng rất thường khi với các cuộc chiến đấu và xung khắc xã hội đã có thể tránh được để không gây ra các đổ vỡ bất công. Để được như thế cần bỏ việc tuyệt đối hoá tư sản là kiểu mẫu của chế độ tư bản tự do, và theo giáo huấn của các Giáo Phụ và các thần học gia lớn của Giáo Hội, theo đó quyền tư hữu không bao giờ được thực thi gây thiệt hại cho công ích. Vì thế trong một số trường hợp có thể thực thi đuờng lối chính trị truất hữu, cấm chuyển vốn ra ngoài, nhất là sử dụng các kinh nghiệm chương trình hoá kinh tế, vì sáng kiến cá nhân không thôi và sự cạnh tranh đơn thuần không thể bảo đảm cho sự thành công của việc phát triển.
Việc tân tiến hoá các quốc gia đang trên đường phát triển phải từ từ. Giáo Hội là “chuyên viên về nhân bản” biết rất rõ rằng vài mất quân bình nào đó trong xã hội là điều cần thiết, do đó việc thay đổi xã hội không được vội vã: một cuộc cải cách nông nghiệp bất thình lình có thể thất bại không đạt đích. Một việc kỹ nghệ hoá vội vã có thể gây bất ổn cho các cơ cấu còn cần thiết, và tạo ra các bần cùng xã hội làm thành một bước thụt lùi trên bình diện các giá trị nhân bản.
Việc đẩy mạnh các tình hình để tạo ra một di động cách mạng nhằm loại bỏ các bất công đớn đau không thể chịu đựng nổi chỉ có thể chấp nhận được trong một số tình trạng xác định như “trong trường hợp một chế độ độc tàì hiển nhiên kéo dài vi phạm trầm trọng các quyền con người và gây thiệt hại một cách nguy hiểm cho công ích của quốc gia. Bởi nếu không, cuộc cách mạng sẽ lại là nguồn gốc của các bất công mới, tạo ra các bất quân bình mới và gây ra các đổ vỡ mới mà thôi: “Không thể đánh đổ một sự dữ thực thụ với giá cuả một sự dữ lớn hơn”.
Sự sữ lớn hơn đó đã là viễn tượng của một “tập thể hoá toàn diện hay của một kế hoạch hoá tuỳ tiện khước từ tự do như nó là và loại bỏ mọi quyền nền tảng của bản vị con người nhằm thực hiện một chủ nghĩa nhân bản vô thần, một chủ nghĩa nhân bản đóng kín, vô cảm đối với các giá trị của tinh thần và đối với Thiên Chúa, là suối nguồn của các giá trị đó. Chắc chắn là con người có thể tổ chức trái đất không có Thiên Chúa, “nhưng không có Thiên Chúa cuối cùng con người có thể tổ chức chống lại con người”. “Một chủ thuyết nhân bản loại trừ là một chủ thuyết nhân bản vô nhân”.
Điều kiện cần có để thực hiện một sự phát triển đúng đắn và nhân bản là phải làm sao để việc tân tiến hoá không bị đi kèm bởi việc tục hoá man rợ, như hiện đang xảy ra tại các quốc gia đang trên đường phát triển. Và nhất là phải biết thừa nhận các giá trị siêu việt cũng như Thiên Chúa là nguồn gốc của các giá trị đó, và trân trọng niềm tin của con người nơi Thiên Chúa. Chỉ như thế mới có thể phối hợp sự phát triển kinh tế với một chủ thuyết nhân bản toàn cầu, bởi vì không có sự nhân bản đích thực nếu con người không rộng mở cho Đấng Tuyệt Đối, qua việc nhận ra một ơn gọi cống hiến cho ý tưởng đích thật về cuộc sống con người. Trong nghĩa này thông điệp có chiều kích “cải cách” đích thực với một viễn tượng lạc quan giúp xây dựng một xã hội công bằng, huynh đệ và hoà bình, đáp ứng các khát vọng của các dân tộc trên thế giới.
(Oss. Rom. 23.24-3-2017)
Linh Tiến Khải
Nguồn: Radio Vatican